Cuộc vây hãm Thanh Đảo Wakamiya (tàu mẹ thủy phi cơ Nhật)

Từ ngày 5 tháng 9 năm 1914, Wakamiya đã tiến hành các cuộc không kích của hải quân đầu tiên trên thế giới trong những tháng đầu tiên của Chiến tranh thế giới thứ nhất từ vịnh Giao Châu ngoài khơi Thanh Đảo, Trung Quốc.[4] Vào ngày 6 tháng 9 năm 1914, một chiếc máy bay Farman phóng từ Wakamiya đã tấn công tàu tuần dương Áo-Hung Kaiserin Elisabeth và pháo hạm Đức Jaguar ở vịnh Giao Châu nhưng không gây thiệt hại gì hết.[5][6] Từ tháng 9 đến 6 tháng 11 năm 1914, Các thủy phi cơ của Wakamiya tiếp tục đánh bom các mục tiêu trên bộ do Đức nắm giữ (trung tâm liên lạc và trung tâm chỉ huy) ở bán đảo Thanh Đảo cùng với các tàu còn trong vịnh Giao Châu

Các sĩ quan Anh trong Trận Thanh Đảo nhận xét về hoạt động của Wakamiya:

Hai trong số những chiếc máy bay Maurice Farman của Wakamiya đậu trên đất liền ở Thanh Đảo sau ngày 30 tháng 9 năm 1914.

Các thủy phi cơ Nhật phóng từ tàu mẹ thực hiện các cuộc trinh sát hàng ngày nếu điều kiện thời tiết cho phép. Chúng mang về thông tin quý giá trong suốt cuộc vây hãm. Tàu mẹ được trang bị cần cẩu để thả và thu về máy bay. Trong suốt thời gian trinh sát, họ bị pháo Đức bắn bằng đạn phân mảnh nhưng không máy bay nào bị bắn trúng. Phi công Nhật thường mang theo bom để thả xuống đội hình địch

— Bái cáo bởi Thiếu tá Hải quân G.S.F. Nash và G. Gipps, HMS Triumph, ngày 18 tháng 11 năm 1914.[7]

Vào ngày 30 tháng 9, Wakamiya đâm phải một quả mìn của Đức và được đưa đi sửa chữa trong một tuần. Trong lúc này, những chiếc máy bay của tàu được chuyển đến trên đất liền tại Shazikou (沙子口海岸) và ở đó họ tiếp tục các nhiệm vụ trinh sát và tấn công tiếp theo:

Ba thủy phi cơ Maurice Farman của Hải quân Nhật

Phi đội thủy phi cơ và ba thủy phi cơ Henry Farman 100 mã lực đã phải hạ cánh ở cảng Lao Sơn (nằm ở phía tây của Vịnh gần hơn với Thanh Đảo) do tàu mẹ bị hư hỏng và họ đã thực hiện xuất sắc công việc này.

— Bái cáo bởi Thiếu tá Hải quân G.S.F. Nash và G. Gipps, HMS Triumph, ngày 18 tháng 11 năm 1914.[7]

Tổng cộng các thủy phi cơ đã thực hiện 49 cuộc tấn công, thả 190 quả bom vào hàng phòng thủ của Đức cho đến khi quân Đức đầu hàng vào ngày 7 tháng 11. Theo Tùy viên Hải quân Anh tại Tokyo, Đại úy Hải quân Hubert Brand, người đã đóng quân trong ba tháng trên các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong suốt trận chiến, những quả bom được sử dụng bởi các thủy phi cơ tương đương với đạn 12 pounder.[8]